Saturday, May 2, 2020

Thằng Đực Biên Hòa Thời Thơ Dại



 Thằng Đực Biên Hòa Thời Thơ Dại

Mời uống trà, xem:”Thằng Đực Biên Hòa Thời Thơ Dại”

                                         Thằng Đực:

                                                  ĐQM

Má tôi sanh “liền tù tì” ba người con gái, rất mong có một mụn con trai. Khi sanh ra tôi, ba má ăn khao lớn và đặt cho tôi một cái tên trong khai sanh rất đẹp đẻ và “mỹ miều”: ĐQM. Nhưng, không bao giời dám gọi cái tên “húy” nầy, vì sợ “Ông Bà?!! quở?!!”. Lúc nào cũng gọi là “Thằng Đực”, bất kể thời gian và không gian. Một cái tên gọi rất hiển nhiên, vô thưởng, vô phạt. Đã là đực thì “đực”, chớ làm sao “cái” được?!, cũng không sợ gọi trùng tên. Nếu trong gia đình hay họ hàng, có ai được gọi là Đực rồi, thì tùy theo giai cấp, thứ tự, trường hợp, mà gọi là “Đực Lớn” hay “Đực Nhỏ”. Đực tôi, có lúc được gọi là “Đực Lớn”, lúc lại “Đực Nhỏ”. Vì lúc nào, ở đâu cũng gọi là “Thằng Đực”, nên bạn bè lối xóm, từ nhỏ đến lớn, đều chỉ biết và gọi “Thằng Đực” mà thôi, không ai biết ĐQM là ai cả.
-Thời thơ dại ở trường học:
Đầu thập niên bốn mươi, khi đến tuổi bắt đầu đi học, Đực tôi vào lớp Năm (cours enfantin), với thầy Phú Thành Nên, ở Trường Nam Tiểu Học Biên Hòa (École Primaire Complémentaire de Biên Hòa).

TTHBH-01

                                 (Trường Nam Tiểu Học Biên Hòa)

Đôi khi, thầy cũng bỡ ngỡ, vì có một vài thằng bạn, cùng lớp, lại cùng xóm, quen miệng, cứ gọi tôi là “Thằng Đực”, chớ không nhớ cái tên đẹp đẻ của tôi trong lớp, là ĐQM.
Trong sổ điểm, thầy ghi tên tôi là: ĐQM
Trên nhãn (étiquette) của tập vở bài làm (cahier de devoirs), thầy có ghi rõ ràng nơi “Appartenant à l’élève”: ĐQM
Nhưng, lại thường bị gọi là “Thằng Đực”…
Thời thơ dại, Đực tôi không thấy “quê”, không mắc cỡ, cũng không buồn…
Lớp Năm của thầy Nên ở đầu dãy trệt, phía trái, ngoài ngôi trường chính, cách nhà vệ sinh (có hàng rào bông bụp bao quanh) khoảng chừng mười thước. Vị trí nầy rất thuận tiện cho bọn nhóc, mới bắt đầu đi học, dễ dàng đi làm cái việc “vệ sinh”. Nhưng, vào những ngày mưa dầm, nước ngập, lội nước lũm chũm…, không mấy thú vị; đôi khi phải “nín”, vì đi chân không, sợ bẩn. Ở ngoài sân, cạnh lớp học, có cái sạp bán bánh kẹo của Bà Hai, lao công nhà trường. Chỉ có Bà Hai mới được bán trong sân trường, còn tất cả các xe, sạp, gánh hàng rong khác, đều phải ở ngoài rào cổng trường. Đực tôi lúc nào cũng mong giời ra chơi để được mua bánh, khoai, xôi, kẹo v.v…
Thời thơ dại, lúc bấy giờ cũng hồn nhiên, vui vẻ, không có việc gì đáng tiếc xảy ra…
Đực tôi lên lớp Tư (cours préparatoire),với thầy Trần Văn Lô, cũng còn ở dãy trệt, cạnh lớp Năm, tiện việc vệ sinh…,tiếp tục ăn hàng rong vào giờ ra chơi…
Thời gian trôi qua, Đực tôi được lên lớp Ba (cours élémentaire), với thầy Lê Văn Chinh. Phòng học lớp Ba được đặt trên lầu, phía trước, thuộc cánh phải của ngôi trường chính (1).

TTHBH-1943 - Copy (2)

(quang cảnh trường Tiểu Học Biên Hòa thập niên 1940)

https://aihuubienhoa.com/a225/truong-tieu-hoc-nguyen-du-tran-van-trung

Thời gian nầy, tuy tuổi đời có lớn hơn trước đôi chút, nhưng sự thơ dại và lầm lỗi lại nhiều…
Một hôm, giờ ra chơi mà trời mưa dầm. Phần lớn các bạn cùng lớp đều xuống nhà chơi (préau). Riêng Đực và một vài bạn học khác ở lại lớp. Hết giời chơi, trống đánh vào lớp, Đực mắc tiểu. Xuống nhà vệ sinh thì rất xa (phải đi ngang qua lớp học phía sau, xuống thang lầu, ra khỏi nhà chơi…), vì ngại trời mưa, sợ phải lội nước bẩn v.v…Đực bèn đánh bạo, làm liều, đứng ngay cửa sổ của lớp, ở trên lầu, mà “tè” xuống mái hiên, phía dưới sân (2), chỗ để xe đạp, bàn ghế cũ, tạp nhạp…
Khi vào lớp học, có bạn thưa thầy, Thằng Đực làm bậy. Thầy Chinh rất tức giận, bắt Đực nằm xuống sàn, đánh phạt mười lăm thước bảng vào mông đít. Ôi! đau lắm! Nhiều lần Đực lăn tránh đòn, nhưng không khỏi. Đực chịu đựng, không dám khóc. Nhưng, có lẽ thầy còn giận lắm, không tha, mà cũng không có một lời răn dạy, chỉ biết đánh đòn cho đủ số trừng phạt.
Thầy Chinh áp dụng câu châm ngôn “thương cho roi cho vọt”? Tất cả các thầy ở trường, không ai phạt học trò có lỗi bằng cách đánh thước bảng.

Thầy Trần Văn Lô, khẻ tay bằng thước kẻ;

Thầy Đinh Văn Sái,

1915-1992

khẻ tay bằng đủa bếp;

Ông Đốc Lê Hửu Vỉnh,

docvinh-large

véo bắp vế non…

Còn thầy Chinh, nếu bắt gặp học sinh có lỗi ở ngoài sân, không có sẵn thước bảng, thầy tát tay hay phun nhổ nước bọt miếng vào mặt. Thầy Chinh tốt nghiệp sư phạm ở Singapore? Không! (ở Singapore, luật pháp thường trừng phạt tội nhân bằng roi đòn *). Phải chi, thầy răn dạy, giải thích lỗi lầm của Đực, để tất cả học sinh trong lớp đều biết, đừng tái phạm. Nhưng không, Thầy chỉ đánh đòn cho hả giận.Mông đít của Đực bị bầm tím.

                        (mông đít bị bầm-hình minh họa)

Mỗi chiều, đi học về, Đực được má tắm trong thau nước với sà bông thơm hiệu Cô Ba.

                                      (hình minh họa)

Biết trả lời sao nếu má thấy vết bầm? Để giấu má, Đực phải nói dối là bạn rủ đi tắm sông, không tắm ở nhà. Đã ba ngày rồi mà đít vẫn còn bầm. Rầu quá!
Thời may đến…
Sau khi sanh Đực, má hài lòng, vui vẻ có được một con trai nối dõi tông đường (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô), nên “nín” riết trong nhiều năm. Bây giờ, má vừa sanh ra thêm một Đực nhỏ. Còn đang “nằm lửa”, yếu đuối, má không tắm Đực mỗi buổi chiều nữa. Đực tha hồ tắm sông thêm một tuần lễ, đít mới hết dấu bầm. Hú hồn! Thật ra, nếu má biết Đực bị thầy đánh đòn, bầm đít, chắc cũng âm thầm, nuốt lệ, thương con, không đến trường thưa gởi chi cả.
Cơn đau nào rồi cũng qua đi, nhưng những vết bầm trên người, sẽ là dấu ấn suốt đời, không còn dám tái phạm nữa.
Thầy Chinh dạy học giỏi, tận tụy. Học sinh cả lớp đều tiến bộ. Đực cũng được lên lớp vào cuối năm đó. Cám ơn Thầy đã dạy dỗ.

(Xin xem bài “khoan dung” để suy ngẩm)

Ba Đực làm lính Mã tà, rày đây, mai đó. Khi thì bót Long Thành, lúc thì đồn Bà Rá…Thời đó không có “Quân Tiếp Vụ”. Đôi ba tuần hay một tháng mới có “xe lương” tiếp tế lương thực một lần. Xe lương là một chiếc xe bò, có mui rộng. Khi nào xe còn chỗ trống mới cho thân nhân quá gian đi theo. Có lần, Đực cũng được theo chiếc xe lương nầy để đi thăm Ba. Phải mất một ngày cho mỗi lượt đi hoặc về.

                                 (xe lương-hình minh họa)

Thường ngày, Đực ở nhà với má. Đực ham chơi hơn thích học. Mỗi lần bãi trường, má bắt buộc Đực phải đi học thêm ở trường tư, hết trường nầy, đến trường khác, chớ không được ở nhà, rảnh rang, để đi chơi lang thang.
-Học ở trường GAILLARD (Institution Gaillard). Bọn nhóc chúng tôi thường gọi là trường “Cây Da”. Trường tọa lạc trên một con đường vắng, ngõ cụt, gần rạp hát Vạn Khánh Hưng.

RẠP HÁT VẠN KHÁNH HƯNG - Copy

Trường, chỉ là một căn phố dài, không có sân chơi. Cạnh trường, là nhà của anh Duyên, bạn học cùng lớp. Lợi dụng quen biết, Đực thường hay trèo lên hàng rào tường, có song sắt nhọn, để hái hoa Ngọc Lan “bông sứ”, lấp lánh trên cành, như những hạt ngọc, rải hương ngây ngất.

                           (hoa Ngọc Lan-hình minh họa)

Một hôm, động tịnh, chó berger trong nhà chạy ra sủa. Đực vội vã tuột xuống, áo vướng vào song sắt, nhờ áo rách, Đực thoát thân, không bị chó cắn. Chuyện nhỏ, không sao! Về nhà ‘dối mẹ qua đường trượt chân….’.
-Học ở trường nhà thầy ba Hiệp, thầu khoán, khoảng dưới xóm Tiệm Rượu. Trường chứa đầy gạch, cát, vật liệu xây cất…, không có sân chơi. Phía sau lớp học, dưới gốc cây dừa, cạnh một cái cầu ván nhỏ, bắt xuống sông Đồng Nai, có treo tấm bảng “CẤM HỌC SINH TẮM SÔNG”. Một hôm, giờ ra chơi, Đực bèn cởi hết quần áo, xuống sông bơi lội. Kẻng đánh vào lớp, Đực không hay biết. Ông thầy đứng lớp thấy thiếu, đi tìm. Ra bờ sông, Ông gọi Đực lên và đem hết áo quần vào văn phòng. Trần trụi, trơ trẽn, Đực đi vào văn phòng để nghe quở mắng và xin lại quần áo mặc. Rất may là các bạn học sinh nam, nữ đều ở trong lớp học, không ai thấy “người nhộng” ra sao…Thời thơ dại! Đực tôi cũng phớt tỉnh, như không có việc gì xảy ra. Thật hết biết!!!
Thuở xưa, các thầy cô rất tận tụy dạy dỗ học sinh ở trường. Chỉ có một vài trò học yếu, hay lười biếng, không thích học như Đực tôi, mới phải đi học tư thêm, vào mùa bãi trường.

Thời thơ dại ở nhà và lối xóm.

Trước biến cố Nhựt đảo chánh Pháp, từ khu hãng dầu vào ga xe lửa, chỉ có một con đường duy nhứt, Quốc Lộ 1 (sau nầy gọi là đường Hàm Nghi), chạy dọc theo bờ sông Đồng Nai, đến sens unique (bây giờ là công trường Sông Phố), quẹo phải, đường Trịnh-Hoài-Đức, đến đường vào ga. Sau khi người Pháp trở lại Đông Dương, họ xây thêm một con đường Quốc lộ 1, chạy thẳng, từ ngã ba hãng dầu, đến ngã năm Biên Hùng bây giờ, thay thế đoạn đường Quốc lộ 1 cũ nói trên. Cư dân thường gọi là đường đắp mới (bây giờ là đường Hà Huy Giáp). Rút kinh nghiệm, đường đắp cũ thấp, sát bờ sông, thường hay bị ngập lụt. Đường đắp mới được xây cao, khoảng hai thước, cách mặt ruộng lúa hai bên. Nhưng, cũng không tránh khỏi bị nước ngập vì trận bão lụt năm Nhâm Thìn 1952. Cư dân phải chèo thuyền trên đường.

tlbh-02

                                             (lụt năm Nhâm Thìn 1952)

Về mùa nắng khô ráo, vào những buổi chiều mát mẻ, thơ mộng, gợi tình, gợi cảm, hai bên vệ đường, thấp dưới ruộng, là nơi hò hẹn lý tưởng của đôi tình nhân, thường là những cặp sồn sồn, đến đó “ăn chè” (cụm từ của báo chí nói về vụ “Phạm Duy đi Nhà Bè ăn chè”, tư tình lén lút). Tuổi học sinh thời thơ dại, vào thuở ấy, không có chuyện nầy. Nhưng, tò mò, đôi khi Đực tôi cũng giả vờ đi hóng mát, dạo qua cho biết sự tình…
Vào mùa mưa, hai bên đường đắp mới đều là ruộng lúa ngập nước. Những ngày nghỉ học, Đực thường hay đến đây câu cá. Muốn có tiền sắm một bộ, khoảng hai mươi, cần câu cắm, Đực phải nghĩ ra cách kiếm tiền, chớ má không cho:
Bán vỏ con ve sầu lột xác.

                    (vỏ con ve sầu lột xác-hình minh họa)

Vào mùa hè, ve sầu reo vang, ran rộ. Sáng sớm, Đực vào vườn Ông Chánh, nơi có nhiều cây đa, cây sao cổ thụ, cao ngất,

DINH THAM BIỆN-1929

               (Dinh Quan Chánh Tham Biện ngày xưa)

(Bây giờ là Cung Văn Hóa Thiếu Nhi Tỉnh Đồng Nai)

gỡ vỏ các con ve sầu lột xác, còn bám trên thân cây. Vài ngày, sau khi đầy một lon sữa bò, Đực đem bán cho tiệm thuốc bắc, được đôi ba đồng.

50-XU

                                     (năm mươi xu-hình minh họa)

Không biết mấy Ông thầy Tàu mua ve lột để làm gì, chắc nó có công dụng trong y học cổ truyền?!!!
 -Bán cà phê dạo.
Vào thời kỳ Việt Minh thường hay đặt mìn, đào đường, đấp mô, việc giao thông Saigon-Đà Lạt rất khó khăn, không được suông sẻ. Xe chuyên chở hàng hóa, tiếp liệu nhu yếu phẩm từ Saigon lên Đà Lạt và chở rau cải, bông hoa… từ Đà Lạt về Saigon, phải tập trung thành đoàn (convoi), chờ quân đội Pháp đi mở đường, gỡ mìn, phá mô xong rồi mới được lưu thông. Mỗi tuần chỉ có một lần convoi mà thôi. Đoàn convoi Saigon- Đà Lạt tập trung rất đông, vào buổi sáng, tại đường đắp mới

CHÔN NHAU CĂT RÚN-03

        (Ngả ba Hảng Dầu-Quốc lộ 1 và đường đắpmới)

thời gian lâu hay mau, không nhất định. Khi nào đường sá yên ổn, quân đội Pháp sẽ hộ tống convoi lên đường. Hành khách phải chờ đợi, mệt mỏi. Đực nảy ra ý kiến, bán cà phê dạo. Pha một bình tích cà phê đen với đường tốn một đồng.

1 Đ

                                             (một đồng-hình minh họa)

Nếu bán hết, được mười ly, mỗi ly một đồng (cà phê + đường + công + may rủi). Một lời mười. Nhưng, không mấy khi được lời như vậy. Khách đi trên xe, thường là người Pháp, hay người Việt, nhưng lại nói tiếng Pháp. Đực tôi phải rao hàng “café monsieur…”; “café madame…”. Bán được một ly, thường thì, uống xong họ mới trả tiền. Thình lình, còi hụ, đoàn xe bắt đầu lên đường. Có người trả tiền, có người, chẳng những không trả tiền, còn liệng ly xuống đường cho bể. Nhưng, không lỗ!!!. Tệ lắm cũng còn lời được năm, ba đồng, hì! hì!…
Thời thơ dại qua đi.
Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Thời thơ dại rồi cũng qua đi. Vào một buổi chiều mát mẻ, đang đá banh, vui đùa trên cánh đồng khô gốc rạ,

                                     (hình minh họa)

Đực trông thấy vài ba anh lớn, mặt đồ bà ba trắng, đi dạo mát trên đường, vừa đi, vừa nói chuyện, vui vẻ, chững chạc, đứng đắn. Đực đoán biết, các anh thuộc lớp lớn, đi học ở Saigon về quê nghỉ hè. Saigon cách Biên Hòa có ba mươi cây số, nhưng Đực chưa bao giờ được diễm phúc, có cơ hội đặt chân đến thành phố hoa lệ, mệnh danh là “hòn ngọc viễn đông” nầy.
Mơ ước đến! Đực vừa xong bậc Tiểu Học. Biên Hòa chưa có Trường Trung Học. Đực sẽ được đi Saigon học tiếp. Má dẫn Đực ra chợ Biên Hòa, đến sạp bán vải của bác phu nhân Trần Văn Kiêu, chủ tiệm vàng ở đầu chợ,

TRẦN VĂN KIÊU-03- Copy - Copy

                                  (hiệu tiệm vàng Trần Văn Kiêu)

TRẦN VĂN KIÊU-01

mua một sấp vải, để may cho Đực mấy bộ đồ bà ba trắng như các anh lớn, chuẩn bị cho cuộc đời học sinh Trung Học ở Saigon.

Ôi! thời thơ dại, còn đâu nữa!
Tuổi hoa niên, đèn sách miệt mài…

 *Hình phạt đánh đòn, hiện vẫn đang được áp dụng rộng rãi tại Singapore, dành riêng cho đàn ông, ở độ tuổi từ 16 đến 50. Người ngoại quốc cũng không thoát khỏi luật đánh đòn. Tai tiếng nhất là trường hợp của cậu học sinh Mỹ, tên là Michael Peter Fay, 18 tuổi, bị kết án 4 tháng tù, nộp phạt 3,500 SGD và bị đánh đòn 6 roi, về tội xịt sơn đỏ vào xe hơi, ngày 18/9/1993. Vụ việc nầy đã gây phản ứng ầm ĩ trên khắp thế giới vào lúc bấy giờ. Nể mặt Tổng thống Bill Clinton, chính quyền Singapore đã hạ giảm cho cậu ta 2 roi. (nguồn internet).

                                                       **********

            Thằng Đực Biên Hòa thời thơ dại
                              (tiếp theo)
Mỗi sáng thứ Hai, trước khi váo lớp, học sinh, luân phiên từng lớp, phải xếp thành vòng tròn chung quanh cột cờ, ở giữa sân cỏ, trước dải lớp trệt, để chào lá quốc kỳ tam sắc (xanh trắng đỏ của Pháp)

                             (quốc kỳ Pháp-hình minh họa)
và hát bài quốc ca (La Marseillaise) ” Allons enfants de la Patrie. Le jour de gloire est arrivé! Contre nous de la tyrannie. L’ étendard sanglant est levé…”. Học sinh mới “tò te”, chưa rành mạo từ: “le”, “la”, “les”, hay “un”, “une”, “des” mà đã phải học thuộc lòng bài quốc ca của Pháp rồi. Ngoài ra, còn phải thuộc bài hát ca tụng Thống chế Pétain nữa, đại khái như: “Maréchal! Nous voilà! Devant toi, le sauver de la France…”, hay “Kìa Thống chế Pétain tuổi tác, còn hai vai gánh vác non sông…”. Một hôm, được lịnh từ văn phòng hiệu trưởng?!!! thầy bảo, mỗi trò về nhà phải vẽ và nộp một bức hình chân dung của Thống chế Pétain**, giống như ảnh đã treo trên tường giửa lớp học.

                                (Hình Thống Chế Pétain)

Học sinh nhỏ dại, chưa kẻ ngay được một đường thẳng, thì làm sao vẽ được bức hình nầy??? Đực về nhà mếu máo… Má định ra chợ mua một bản bài ca, có in hình của Pétain, bán đầy ở tiệm sách, về nhà cắt lấy hình đem nộp, nhưng Đực sợ bị thầy đánh đòn vì không phải hình vẽ… Thời may, Đực thấy ở cạnh nhà, có anh học lớp lớn, cũng đang cặm cụi vẽ hình của Pétain dựa theo những ô vuông li ti đã được kẻ sẵn trên tấm hình của bản bài ca. Đực nhờ anh nầy vẽ giùm cho một tấm và được má đền ơn bằng một chầu chè đậu xanh bột báng của bà bán rong, đi ngang nhà mỗi đêm, với đôi gánh nặng trĩu, tòn ten ngọn đèn dầu leo lét, lấp loáng dưới ánh đèn đường mờ ảo, vang giọng rao ngọt ngào, lảnh lót: “Ai ăn chè đậu xanh bột báng nước dừa đường cát trắng hôn!!!”.

CHÈ ĐẬU XANH

                       (gánh chè đậu xanh bột báng-hình minh họa)

                                        *****
Mùa hè nào Đực cũng “bị” đi học thêm ở trường tư, buồn chán lắm, nên thỉnh thoảng, Đực trốn học, đi xuống bờ sông Đồng Nai, khoảng giữa Đình Tân Lân và chợ cá để xem người Pháp biểu diễn thủy phi cơ

                                         (hình minh họa)

và ca nô kéo người trượt nước trên sông

                                         (hình minh họa)

rất ngoạn mục và hấp dẫn. Âu, đây vừa là hình thức giải trí của người đô hộ, mà cũng là để giúp vui cho con dân Biên Hòa, dọc ven sông.

                                         *****
Cũng nhân dịp bãi trường, Tỉnh nhà có tổ chức những cuộc vui chơi giải trí, như đấu võ đài (võ tự do, có cả võ sĩ nam lẫn nữ, đặc biệt nhứt là võ sĩ Huỳnh Tiền, vô địch Đông Dương), đấu xảo (hội chợ) hàng đặc sản, cây trái quê nhà, có xổ số “Tombola”…

                          (vé số TOMBOLA – hình minh họa)

mà địa điểm đặt tại sân trường Tiểu học BH. Đây là thời gian mà Đực trốn học ở trường tư nhiều lần nhứt (học tư không có sổ điểm, không có học bạ, nên không sợ ba má kiểm soát, hì hì…!.

                                       *****
Vào những sáng Chúa Nhựt, Đực thức dậy sớm, đi bộ đến sens unique (Công trường Sông-Phố), chờ một đoàn quân nhạc của Tây Lê Dương, đánh trống thổi kèn, có lẽ từ thành Xăng Đá (Thành kèn, Thành cổ BH)

         (Thành Xăng Đá-Thành Kèn-Thành Cổ Biên hòa)

         (Thành Xăng Đá-Thành Kèn-Thành Cổ Biên hòa)

ở ngã ba thành đến, đi diễu hành, rất nhịp nhàng, hùng hồn, vui nhộn; bọn trẻ chúng tôi thường chạy theo sau. Khi người Nhựt đảo chánh, đoàn quân nhạc nầy không còn nữa, mà là đoàn quân Nhựt Bổn, cưỡi ngựa, mang gươm dài (không có súng), đi biểu diễn thật oai nghiêm nhưng có tánh cách chinh phục. Bọn trẻ không dám chạy theo sau.

                                          *****
Vào thời thơ dại của Đực, Thành phố Biên Hòa không có đài phát thanh. Muốn theo dõi tin tức Thế Chiến thứ hai, cư dân phải chờ báo chí phát hành từ Saigon gởi về, hoặc đến Câu Lạc Bộ và Sở Thông Tin của Tỉnh, cạnh sân vận động, dưới dốc tòa  án, để xem tin tức cập nhựt.

Riêng Đực, muốn nghe hát vọng cổ, cải lương, thì ra Phòng Thông Tin đầu chợ BH, nghe trên loa phóng thanh, phát sau lúc tan chợ chiều (không có phát tân nhạc).

                 (Phòng Thông Tin ở đầu chợ Biên Hòa) 
                                        *****
Về đêm, nhứt là cuối tuần, quân nhân, công chức Tây ăn nhậu rất đông ở nhà hàng Hạnh Phước. Bọn trẻ chúng tôi thường lân la ngoài sân, lượm nắp chai rượu đủ loại:

                         (nắp chai rượu – hình minh họa)

và bao thuốc lá thơm như: Mélia vàng, Mélia trắng, Bastos xanh, Mic, Cotab v.v.,

                         (bao thuốc lá Mic – hình minh họa)

               (bao thuốc lá MÉLIA vàng – hình minh họa)

                   (bao thuốc lá COTAB – hình minh họa)

                  (bao thuốc lá BASTOS – hình minh họa)

          (bao thuốc lá MÉLIA trắng – hình minh họa)

để dành chơi “thẩy lỗ” và chơi “tạt bao thuốc”…
Nhưng, cái lý thú nhứt là để được ngửi mùi thơm phức của thức ăn, thức uống “nhà hàng Tây”, mà thường ngày ở nhà chỉ có mùi cá khô, mắm nêm, mắm ruốc…
Mùi thơm của nhà hàng Hạnh Phước đã ăn sâu vào tiềm thức thời thơ dại, nên khi lớn lên, đi học ở Saigon, mỗi lần có dịp đi ngang qua khách sạn Continental hay Majestic, ký ức gợi Đực tôi nhớ lại quê nhà, những buổi chiều lân la ngoài sân nhà hàng Hạnh Phước…

khach-san-continental

Lại thêm nữa, ở khoảng đường hẻm, phía sau nhà hàng Hạnh Phước có một cái sạp hớt tóc rất đặc biệt. Chú thợ hớt tóc có tài kể chuyện cho khách nghe trong khi đang phục vụ. Chuyện kể rất vui nhộn, chuyện dài, chuyện ngắn, chuyện tiếu lâm, hài hước, kiếm hiệp v.v… Hớt tóc xong mà chuyện kể chưa dứt, lần sau đến, chú kể tiếp tục…Giá hớt tóc cho người lớn, hơi đắt; Đực chỉ có đủ tiền hớt tóc dạo cho con nít, nên phải nhín tiền ăn quà để đến đây vừa hớt tóc vừa được nghe kể chuyện. Hớt tóc rồi, ngồi nán lại, nghe ké chú kể chuyện cho người kế tiếp…
Vừa hớt tóc, vừa được nghe kể chuyện cười bể bụng, cũng đáng đồng tiền, vì người ta nói, một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ kia mà, ha ha ha…!

**Philippe Pétain (1856 – 1951), người hùng dân tộc Pháp trong trận chiến Verdun,Thế Chiến thứ nhứt . Thống Chế, đồng thời là Thủ Tướng trong chính phủ Vichy Pháp (1940-1944). Sau bị kết tội phản quốc vì đã hợp tác với Đức Quốc Xã trong Thế Chiến thứ hai. Năm 1945 Pétain bị kết án tử hình, nhưng được De Gaulle giảm án xuống còn chung thân, bị đày ra đảo Yeu và chết năm 1951. Thọ 95 tuổi. (nguồn Internet).

 

 

TÁCH CAFE

Mời uống trà!!!


No comments:

Post a Comment