Ký ức tuổi thơ
Mời uống trà, xem: “Ký ức tuổi thơ tôi”
Thằng Đực
Ông Nội tôi họ Đào (Đào Văn Đá ?), quê quán ở Long Lộc (Bình Long) (A). Ông Ngoại tôi họ Tống (Tống Văn Đài ?), quê quán ở Tân Trạch (Mỹ Quới) (B) thuộc tỉnh Biên Hòa. Vì kỵ húy nên tôi không biết rõ tên các người (Có lần, tôi nói “Tây săng đá-soldat”, bị Ông Mười chỉnh lại là “Tây săng đớ”, vì chữ đá là tên Ông Nội!!! Từ đó tôi mới biết Ông Nội tên Đá… hi.hi).
(Bản đồ 1899 của Sở Họa Đồ-Địa Chánh Nam Kỳ vẽ)
Ông Nội và Bà Ngoại tôi đã khuất núi hồi nào tôi không rõ. Từ khi tôi biết (lúc tôi 6-7 tuổi), thì Ông Ngoại và Bà Nội tôi ở vào khoảng 66-67 tuổi, nhưng dáng vẻ có lẽ già hơn tuổi (Ba tôi lúc đó là 36-37 tuổi).
(Đào Văn Thanh-Ba)
(Tống thị Lự-Má)
Thỉnh thoảng, vào ngày giỗ, Má tôi có dẫn tôi về nhà Nội-Ngoại và ngủ lại qua đêm.
Đi về Nội bằng xe ngựa, dừng lại ở đường cái, đi bộ qua vườn cao su,
băng qua những cánh đồng ruộng mênh mông, trên những bờ đê gập ghềnh, khúc khuỷu, mới đến nhà Nội, ở sát cạnh bờ sông.
Đi về Ngoại cũng bằng xe ngựa, dừng lại ở đường cái, xuống bến đò, qua đò ngang, đi bộ dọc theo bờ sông,
băng qua những cây cầu ván lắc lư, trên những hố sâu dễ sợ, mới đến nhà Ngoại, ở cạnh bờ sông.
Những lúc đến không kịp chuyến đò, phải hú cho chủ đò bên kia sông qua rước.
Những lúc về quê ngủ lại qua đêm như vậy, tôi thường khóc vì nhớ nhà, không quen cảnh nhà quê, mái tranh, vách lá, nền đất, đèn dầu leo lét…
Nhà Nội có lũy tre, tầm vông chung quanh.
Nhà Ngoại có cây sấu sau vườn.
Ở miền Đông Nam Bộ, xe ngựa theo kiểu nầy, được gọi là “xe thổ mộ”. Tây gọi là boite d’allumettes “hộp quẹt”:
như thấy ở bến xe ngựa Saigon, Tây Ninh, Thủ Dầu Một…
Riêng chỉ ở Biên Hòa, mới có xe ngựa theo kiểu nầy:
Tuyến đường ngắn, sự vận chuyển không quan trọng, số xe ngựa kiểu nầy cũng ít.
Chỉ có một hay hai nhà khá giả, muốn có phương tiện di chuyển riêng cho gia đình, mới sắm riêng cho họ một chiếc xe thổ mộ đặc biệt.
Tuyến đường dài, thường xuyên và thông dụng nhứt có lẽ là Bến Cá và Bình Long.
Trong số những xà ích ở bến xe ngựa Biên Hòa có chú hai Tý,
bà con bên nội (tôi không rõ lắm nhưng thuộc là vai em nên gọi ba tôi là anh Năm), nhà ở Bình Ý, gần Bến Cá.
Chú hai Tý chạy tuyến xe Bến Cá-Biên Hòa (không đi Bình Long).
Mỗi khi ba tôi bổ thuốc cao đơn hoàn tán từ Saigon gởi về Biên Hòa, Ba thường giao hàng cho chú hai Tý chuyển tiếp từ Biên Hòa về tiệm thuốc của ba ở Bến Cá.
Ba tôi đi về Bến Cá bằng xe đạp. Má tôi dẫn tôi về Ngoại bằng xe ngựa của chú hai Tý.
Chú hai Tý có đứa con trai là “Đực”, lớn tuổi hơn tôi và bạn học trên lớp tôi, nhưng vì là vai em, nên gọi tôi là “anh năm”.
Tình cờ, khi sống bên Mỹ, con gái của chú hai Tý tên Lương thị Khá, đang sống ở Boston-Massachusetts (học sinh của cô Phan thị Tốt, bạn tôi, giáo sư Anh văn trường Trung học Ngô Quyền Biên Hòa) mà trước đây tôi không biết, gọi điện thoại liên lạc. Từ đấy, tôi mới biết thêm được một số tin tức thuở xa xưa về bên Nội….
Lại thêm, tôi được biết Khá là vợ của Lê Văn An,
nhỏ hơn tôi một tuổi (bây giờ tên là Schrampfer Lee), con của chú Bảy, Lê văn Đổi, cùng gần quê làng và bạn lính Mã tà với ba tôi (hiện nay, nhà của chú bảy Đổi ở sát cạnh nhà của Ba tôi).
Lê Văn An là bạn thời thơ ấu với tôi, sống trong trại lính Mã tà (trại trong) từ 1946-1948 (mất liên lạc với nhau tính đến nay cũng đã 70 năm).
Thím hai Tý đã quá vãng, đại thọ 104 tuổi.
Một lần, nhân ngày lể kỳ yên, Ba Má tôi, với tư cách con dân trong làng, có dẫn tôi về cúng Miễu Bình Long.
Chuyến đi bằng xe lô-ca-xông (location) mướn.
Xe khởi động máy bằng ma-ni-ven (manivelle).
Xe Citroën Traction Avant nầy, bây giờ thuộc hàng đồ cổ (antiques).
Xe chạy thẳng từ Biên hòa đến miễu. Miễu Bình Long day mặt ra bàu “Mật Cật” và day lưng ra mé sông Đồng Nai.(C)
Chung quanh miễu có rất nhiều cây dầu to lớn, ngất nghiểu, cành lá xum xuê, tàng cây ve ra tận cạnh bến đò Long Chiến (đưa người sang Tân Uyên).
Tôi còn nhớ, chiều đêm hôm ấy có rất đông cư dân trong làng, chắc thế nào cũng có cã các viên chức trong ban hội tề.
Ba tôi mặc áo dài, đội khăn đóng màu đen, đứng lên cúng viếng,
với lễ vật gồm có mâm hoa quả, nhang, đèn cầy và một bộ lư đồng sáng choáng có khắc tên “Đào Văn Thanh”.
Ba tôi thuộc lớp người muốn có tiếng tâm, tên tuổi (show off) con dân trong làng…
Lúc bấy giờ là lần đầu tiên, tôi được đi xe hơi.
Mùi săng xe khiến cho tôi có một cảm giác khó quên đến mãi sau nầy; khi có dịp nghe lại mùi săng xe, tôi gợi nhớ chuyến về quê cúng miễu chiều đêm hôm ấy với mệt mõi và buồn ngủ gục…,vì toàn là chuyện của người lớn, ông già bà cả. Trống chiêng inh ỏi, khói hương nghi ngút, cúng quảy linh đình. Thịt heo quay, bánh hỏi, bánh bò, bánh thửng, bánh ít, bánh tét, ê hề, không hứng thú, hấp dẫn trẻ con bằng múa lân, đốt pháo…hi.hi…
Khi chiến dịch tiêu thổ kháng chiến của Việt Minh bùng phát, kế tiếp quân đội Pháp mở cuộc hành quân, lập vùng cấm địa, vườn không, nhà trống, Miễu Bình Long bị đốt cháy sạch, chỉ còn là một đống gạch ngói vụn, nằm giữa đám cây dầu ủ rũ bên sông. Người dân kỳ cựu nơi đây cho biết, đám cây dầu nầy cũng bị đốn đem đi bán lậu hết.
Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Miễu Bình Long mới được trùng tu lại, khang trang hơn trước.
Miễu Bình Long! nơi mà tôi đã từng lưu dấu chân đến trong thời thơ dại…
Một thời biếng học…
Nhìn ảnh, có vẻ tôi được ăn mặc tươm tất hơn các bạn học sinh khác (áo quần soóc “short” trắng, tay đeo dây lắc vàng “plaque”).
Vì mắc cở và cảm thấy xấu hổ học dở, nên tôi tháo gở, để dây lắc tay vàng ở nhà, không đeo nữa. Tôi nói dối với Má tôi là sợ rớt mất lúc phải chạy xuống hầm trú ẩn (bên hông trường), khi có còi báo động máy bay của quân đội Nhựt Bổn đến dội bom ở các khu quân sự của Pháp, như phi trường Biên Hòa v.v… Hu.hu… một thời biếng học…
Ngày 09 tháng Ba năm 1945 quân đội Nhựt Bổn đảo chánh Đông Dương.
Gia đình tôi tản cư bằng ghe về Bến Cá,
sống nơi tiệm thuốc “cao đơn hoàn tán” của Ba
(do Cậu Sáu, em trai của Má, quản lý),
(Tống Văn Lựa-Cậu Sáu)
gần chợ, nằm sát ngay trên bờ rạch, chi nhánh sông Đồng Nai (0), phân cách Bến Cá và Tân Triều.
Nơi đây, hàng ngày, tôi theo các anh lớn, “thanh niên tiền phong”,
làm “thiếu nhi tiền phong” (lúc nào cũng có đeo bên hông cây dao găm tự tạo và cầm tầm vông vạt nhọn, khoái lắm lắm!!!) đi biểu tình ủng hộ “Kháng chiến”. Tuổi thơ dại (9 tuổi), tôi không biết gì về ý nghĩa việc làm, chỉ biết ham vui, tháp tùng đi theo đoàn mà thôi.
Ngoài ra, tôi cũng thường lân la theo các chú lính Nhựt Bổn (lúc đó chắc đang làm công tác dân sự vụ?!), để được cho kẹo, bút chì, hình vẽ và tập vở…
Buổi sáng, tôi thường được ăn bắp nấu đựng bằng lá chuối…,
hay ăn bún với nước mắm ớt…Buổi chiều tối, đôi khi tôi được tiền mua chuối sấy khô ăn ngon hết ý…
Thích nhứt là lén đi tắm sông nơi cầu Huyện (cầu bắt ngang qua rạch, nối liền Bến Cá với Tân Triều).
Lúc ròng, nước đục, cạn sâu dưới đáy và đầy rẩy lục bình, có thể đi bộ băng ngang qua dưới rạch được.
Lúc nước lớn, tràn ngập lên đến gần bờ đường và lục bình trôi đi bớt, nước trong, mát.
Đôi lúc, tôi nhảy plongeon từ trên cầu xuống rạch, cách khoảng chừng ba thước.
Suốt ngày, không có đi học, rảnh rang, tôi chỉ lang thang nơi đầu đường xó chợ…
Ở tại nơi nầy, có lần tôi nghe Ba đánh chị Ba
(Đào thị Liêu-Chị Ba)
(ở phía sau nhà, chỉ nghe tiếng chị Ba khóc và la “chết con Ba ơi!…”, chớ tôi không trông thấy…), về vấn đề tình cãm của anh Huỳnh Bá Phược (trong thời gian cùng ở gần nhau trong khuôn viên tòa hành chánh quận Tân Uyên năm 1944) (4).
[…Anh Huỳnh Bá Phược, trạt tuổi với chị tôi, là con của Ô. Huỳnh Văn Lộ, thơ ký tại văn phòng tòa hành chánh quận Tân Uyên. Nhà gia đình tôi ở cạnh nhà Ông phán Lộ. Anh Phược học ở trường Pétrus Trương Vĩnh Ký-Saigon, nhưng đang bải trường được về nghỉ ở nhà. Anh Phược có cảm tình và thường dẫn tôi đi dạo chơi trong rừng, bắn chim (bằng dàn thun)
hái trái, bắt cá lia thia…Trong thời gian nầy, tôi được hưởng nhiều thích thú về thiên nhiên hoang dã. Có lần, tôi được mục kích một vũng nước nóng thiên nhiên đang sôi sụt trong giữa rừng, rất lý thú…
Có lẽ anh Phược có cảm tình và “để ý” đến chị tôi.
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều,
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”
ca dao
dị bản (khuyết danh)
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều,
Muốn yêu con chị thì chìu thằng em” hi.hi…
Có một lần chị tôi kéo nước bị đứt dây, gào rớt xuống dưới giếng nước “công cộng” rất sâu và anh Phược tình nguyện lặn xuống vớt lên…
Đôi khi, anh cho chị tôi mượn sách truyện để đọc, qua tôi đem về. Hai người không có bao giờ tiếp xúc, nói chuyện với nhau. Nhưng có lẽ trong những quyển sách truyện đó có kèm theo thơ “tỏ tình” mà tôi không quan tâm để ý biết. Có lẽ chị tôi cất giữ những bức thơ ấy cho đến khi tản cư về Bến Cá và tình cờ Cậu Sáu thấy được “mét” với Ba tôi, nên mới có một trận đòn “khắc khe, hoan nghiệt” về cách giáo dục của cha mẹ ngày xưa…
Tôi không biết chắc, nhưng dường như chị tôi cũng bị xiêu lòng ở tuổi dậy thì thời ấy và sự việc đó ảnh hưởng đến chồng chị sau nầy (Nguyễn Văn Chiếu,
(Nguyễn Văn Chiếu-anh rể)
anh rể tôi và cũng là bạn vong niên thân thích với tôi trong thời thơ ấu)…]
Tạm cư ở Bến Cá một thời gian, gia đình tôi tản cư tiếp tục bằng ghe về Long Lộc, quê Nội (3).
Trong thời gian ở Bến Cá, tôi có nuôi một con chim bồ câu Nhựt Bổn, lông xòe đẹp. Ngày di tản về Long Lộc bằng ghe, ban ngày trời nắng, chai ghe chảy ra làm dính lông chim bồ câu. Sau đó chim chết hay sao tôi không nhớ rõ.
Cuộc đời trôi nổi, nhiều biến chuyển, nhưng tâm tư tôi vẫn hồn nhiên, thơ dại.
Khi đến Long Lộc, lúc mới đầu, tôi ở chung nhà với bà Nội. Sau đó Ba mua lại một cái nhà cũ ở bên kia sông, chở bằng ghe về, dựng tạm lên một cái chòi phía sau vườn nhà Nội. Tôi đã sống trong cái chòi nầy, chờ đợi Ba dựng lên nhà chính thức, trên mãnh đất riêng, sát ranh với nhà bà Nội.
Suốt thời gian ở Long Lộc, tôi chứng kiến nhiều lần lính Tây đến bố ráp trong làng.
Khi họ vào làng bằng tàu, theo đường sông, hướng lên thượng nguồn sông Đồng Nai, thì ba chạy ra bàu “Mật Cật” (1) trốn.
Khi họ đến bằng đường bộ, từ ngõ Cây Đào, Vỏ Xa (2), qua vườn cao su, thì ba chạy xuống bờ sông trốn.
Hàng ngày, nếu không đi công tác cho Việt Minh (giao liên !?), Ba dựng nhà (Ba tự đốn cây, cưa cây, đẻo cột…), đi câu tôm (mồi bằng ruột dừa khô, còn xuồng thì mượn của Ông Mười là em của Ông Nội)…
Thường khi, Ba phải ăn độn củ nần nấu chín với đường khạp…
Đôi khi, tôi thấy Ba và Má ra ngồi ở bờ sông, vào buổi chiều, có lẽ để tâm sự và bàn tính việc gia đình đang sống ở “giửa hai lằn đạn”: một bên là Việt Minh bắt đi công tác, còn một bên là bị Tây ruồng bố…
Má thì tùy mùa, có lúc đi cấy hay đi gặt lúa mướn;
có lúc đi phát mía mướn cho dân làng chung quanh…
Lúc nầy, Má đem về cho tôi những khúc mía hồi mập tròn và ngon ngọt.
Hết khi phát mía, Má “ngồi che” ép mía, Ba phụ nấu đường cho Bác Tư.
(Ông che-hay bộ che-hình minh họa)
(chòi che ép mía-hình minh họa)
(chòi che ép mía-hình minh họa)
(lò nấu đường-hình minh họa)
Thời gian tản cư, không có đi học, tôi hồn nhiên hưởng thú hương đồng gió nội, gài bẫy bắt chim, nuôi gà vịt và heo.
Những ngày trời chuyển mưa, tôi và các chị thường ra bàu Mật Cật (1) chao tép và cá cơm.
Khi các chủ đìa tát nước bắt cá lớn, tôi đi hứng bắt cá con.
Khi chủ đìa về, tôi lội xuống bùn kiếm bắt hôi cá còn xót lại trong hang.
Những ngày trời tốt, buổi sáng tôi và anh tư Lý
Đào Văn Lý
(người anh họ, con của bác tư, cùng tuổi với tôi, hiện nay là Hòa Thượng Thích Huệ Thông, viện chủ Châu Thới Sơn Tự hay còn gọi là chùa Núi Châu Thới),
dẫn trâu ra đồng cho ăn cỏ.
(hình minh họa)
Buổi chiều dẫn trâu về, xuống bến cho trâu tắm.
(hình minh họa)
Bến tắm trâu rộng rãi, tha hồ tôi tắm lội. Có một lần tôi bị hụt chân, uống nước, nhờ anh Lý đưa tay níu kéo lên.
Những lúc không dẫn trâu đi tắm, tôi tắm ở bến nhà, tuy sâu, không bơi lội được, nhưng nhờ có hàng rào đăng lại (không cho những bó ngọn mía ngăm nước bị trôi dạt), nên tắm vững bụng hơn, không sợ cá sấu hay bị nước cuốn trôi đi.
Tôi cũng hay theo chú Út Liêm (người chú họ, em của chú Ba Lé, con của Ông Bà Chín, em của Ông Nội) ở cạnh nhà, dẫn trâu lên đồng cao cho ăn cỏ để bẩy chim và hái dứa rừng…
Sợ Tây đi bố ráp bắt heo, tôi phải đào một cái hầm để giấu con heo.
Có một lần, con heo chạy vào đám mía rộng mênh mông. Tôi chạy đi tìm, không thấy, bị lá mía cứa rách cả tay chân. Tôi chạy tuông vào đám mía, vừa kêu “ụt! ụt!”, vừa khóc vì sợ mất heo luôn. Rốt cuộc tôi tìm ra được “chú ỉn”, mừng quá, đem về cột nhốt lại. Trong khi chạy đi tìm heo, tôi bất kể đạp vào những đám phân mà những ngày trước đây tôi thường “ịnh” (ỉa) vô tư, trong đám mía, chùi bằng lá hay đất cục (vì không có giấy).
Lần khác, Tây đến, vào nhà, với súng ống rần rộ, tôi sợ họ bắt mất con heo mà tôi nuôi thương mến, tôi bèn chấp hai tay lạy họ và nói: “xin đừng bắt con heo của tôi” (bằng tiếng an-nam-mít “annamite”).
Ôi! một thời thơ dại dưới sự đô hộ của ngoại bang…Có nhục nhã, thấp hèn hay không? Thưa không! Vì lúc đó tôi chưa có ý thức gì về chế độ, chỉ sợ kẻ cướp lấy mất của mình mà thôi…hu.hu…
Vào thời gian nầy, tôi có dịp gặp anh Lương Văn Lựu
(Lương Văn Lựu)
nhà biên khảo “Biên Hòa Sử Lược”
(đang tham gia kháng chiến, hoạt động cùng với các đồng chí của anh ở nhà Bà Chín).
Tôi cũng có dịp gặp Huỳnh Văn Nghệ
(Huỳnh Văn Nghệ)
“thi tướng rừng xanh” (nằm võng ở nhà Ông Mười) với hai câu thơ bất hủ:
“Từ độ mang gươm đi mỡ cỏi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”
(Trích trong bài thơ Nhớ Bắc-1940 của HVN, khi còn là nhân viên ở Sở Hỏa Xa Saigon, trước khi đi kháng chiến)
Ở cạnh nhà Nội, có một cây xoài hoang, vô chủ, to lớn, say trái.
Khi trời mưa giông, những chùm xoài to lớn, tòng teng, đung đưa trong gió. Tôi dầm mưa chạy ra đón hứng, lượm những trái xoài rơi rụng, có lúc lạnh run buốt, nhưng bặm gan chịu đựng, để có được nhiều trái. Để làm gì? Xin thưa tôi không có ăn. Chỉ để ngày mai đem ra chợ bán kiếm chút tiền lẽ. Để làm gì? Xin thưa! Sự việc là như thế nầy.
Thời thơ dại, lúc tản cư, tôi không được ăn bánh, chỉ khi mùa nấu đường, có lúc được ăn mía nhúng đường, hay đường kiến (đường nát vụng trong khi đổ khuôn), chớ thường thì chỉ được ăn độn củ nần nấu chín với đường khạp (đường nấu chín xong không đổ vào khuôn mà chỉ đổ thẳng vào cái khạp).
Không biết vì lý do gì tôi lại thèm ăn bánh ít trần (bánh ít không gói, mầu trắng, có nhưn, chỉ để trần trên lá chuối).
Đêm nằm mơ, tôi thấy có được ăn bánh ít trần, ngon lắm…
Sáng hôm sau, hết mưa giông, tôi đem cỡ một rỗ xoài vừa nhặt được, còn tươi tốt, ra chợ Vỏ Sa (2) bán.
Suốt buổi chợ, tôi bán được hết cã rỗ xoài, với số tiền vừa đủ mua có hai cái bánh ít trần.
Tôi đi về, vừa đi, vừa nhăm nhi ăn, thật khoái khẩu; chưa tới nhà mà tôi đã ăn hết hai cái bánh ít trần.
Công dầm mưa lạnh, công đi ra chợ ngồi bán suốt buổi sáng, mà chỉ đủ đổi lại có 2 cái bánh ít trần, nhưng cũng giúp tôi có được một bài học tự túc, tự lực, không phải nhờ vả, xin xỏ ai cã. Tôi vẫn giử ý chí đó mãi cho đến bây giờ …
Sống ở Long Lộc đến khoảng giửa năm 1946, Ba tôi âm thầm trốn hồi cư về Biên Hòa, trình diện, đăng ký lại lính Mã Tà. Vài hôm sau, sáng sớm, Má tôi dắt tôi đi bộ ra vườn cao su, đón xe ngựa (không phải của chú hai Tý), đi về Biên Hòa, sum họp với Ba tôi ở trại lính trong (1).
Các chị tôi còn ở lại nhà tại Long Lộc.
Cô Tám Núi (em của Ba) nghe phông phanh, Việt Minh định bắt cốc các chị tôi làm con tin để Ba tôi hồi hương, nên dắt các chị tôi trốn hết về Biên Hòa.
(Đào thị Thảo-Chị Hai)
(Đào thị Liêu- Chị Ba)
(Đào thị Hoa-Chị Tư)
Việt Minh thấy ý định không thành nên vào một đêm vắng, họ đến nhà thấy trống trải, bèn nỗi lửa đốt cháy căn nhà, sáng rựt cả một vùng trời. Thế là công trình của Ba tôi chắt chiu gầy dựng đã trở thành mây khói, chỉ còn lại một mãnh đất khô cằn, không mầu mỡ.
Sau đó, gia đình Bác Tư (anh của Ba)
(Đào Văn Quân-Bác Tư)
dùng miếng đất đó để trồng mía, nhưng không có trả tiền mướn, cũng không có đóng thuế thổ trạch.
Thỉnh thoảng, có năm, bác Tư gởi cho gia đình tôi một khạp đường mía thế thôi, nhưng rồi cũng ngưng bặt luôn…
Tiền thuế thổ trạch mỗi năm không ai đóng, lại chồng chất nhiều thêm lên, nên đành bỏ hoang. Người lạ thấy vậy đến khai thác lậu.
Gái Hai (con Chị Tư)
(Lê thị Hằng-Gái Hai & Chị Tư)
chạy chọt lo lót thế nào tôi không rõ, bán được miếng đất ấy (dường như có nhờ thế lực của vợ Đực Nhỏ giúp giùm…).
(Tống Ngọc Sâm-Đực nhỏ)
(Lâm thị Nguyệt-vợ Đực nhỏ)
Chị Tư không cho biết tiền bán miếng đất là bao nhiêu.
Riêng tôi không quan tâm.
Nhưng là một vấn đề gây thắc mắc cho các con của chị Ba:
(Các con của chị Ba)
“hương hỏa của Ông Ngoại để lại nên chia đều cho các cháu…” vân vân và vân vân…
Căn nhà hiện tại của Ba, số 47 đường Hà Huy Giáp, cũng là một vấn đề gây thắc mắc cho các con của chị Ba.
Bà con bên nội mà tôi biết, còn có chú ba Chỏi. Liên hệ gia tộc như thế nào, tôi không rõ lắm nhưng thuộc vai em, nên chú gọi ba tôi là “Anh Năm”. Gia đình chú ở dóc Sỏi (gần phi trường Biên Hòa). Chú là nhân viên của nhà máy nước Biên Hòa. Chú có nhiệm vụ là mỗi ngày đi xe đạp đến mở và khóa các vòi nước công cộng (phông tên-fontaine) dọc theo bên lề đường.
(Vòi nước công cộng ở đường Hàm Nghi Biên Hòa, nơi tôi đã từng “tắm ở truồng” trong thời thơ ấu)
Thỉnh thoảng, chú ghé nhà uống nước buổi trưa. Chú ba Chỏi có hai người con trai. Người lớn tên Bé, trạt tuổi với chị Tư tôi, nhưng vì là vai em, nên gọi tôi là “anh Năm”. Người nhỏ tên Giàu. Mỗi ngày, Bé đi xe đạp từ dóc Sỏi xuống trường tiểu học Biên hòa để học, có mang theo một mo cơm vắt (cơm nấu xong, ép vắt vào một cái mo cau rồi cột chắt lại) để ăn trưa.
Sau buổi học ban sáng, Bé ghé nhà tôi để ăn và ngủ trưa, chờ buổi học ban chiều. Thỉnh thoảng, Má tôi có chia sớt phần ăn nóng cho Bé, còn tôi, đổi lại, ăn phần cơm mo nguội, để đổi khẩu vị. Tôi cảm thấy ăn ngon vì lạ miệng.
Cách đây vài năm, tôi được tin Gái Hai cho biết Bé (đang sống ở khoảng dóc núi Châu Thới) đang lâm cảnh nghèo túng và bịnh hoạn. Tôi có gởi về $100 nhờ Gái Hai chuyển để giúp đở (nghe nói Bé cũng tự ái, không muốn nhận giúp đở…). Nghe nói, năm nào Bé cũng có đến dự lễ giỗ của “bác Năm”, Ba tôi. Sau đó, tôi được tin Bé đã thất lộc. RIP…
Trước khi quân đội Nhựt Bổn đảo chính Đông Dương 1945, tôi có đi xe đạp đến nhà chú ba Chỏi ở dóc Sỏi và dự định phiêu lưu đi tiếp tục về nhà Nội một mình, nhưng vì xe đạp bị bể bánh, tôi phải vá xe ở dọc đường bằng mủ non của cây cao su, nên không dám đi tiếp, đành trở về. Cũng may, nếu phiêu lưu, sẽ không kịp trở về nhà vào buổi chiều tối, vì đường đá không tráng nhựa, bên phía phi trường thì vắng tanh, bên đường có vườn cao su thì lạnh ngắt, rùng mình dễ sợ…
Sau thời kỳ tản cư, tái định cư, đi Saigon ở học…, tôi và Bé không có dịp gặp nhau nữa, nhưng đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ hình ảnh của Bé thuở nào.
Bên Ngoại, tôi chỉ biết có cậu sáu Lựa (em kế má).
và chị ba Trữ (con của người anh thứ hai của Má) gọi Má bằng cô.
Chị ba Trữ đến nhà giúp má trông chừng chị em tôi (không biết từ lúc nào). Từ khi tôi biết và còn nhớ, có lần chị dẫn tôi đi về Ngoại, trên con đường giống như Má tôi đã dẫn tôi đi trước đây. Dọc đường, bên cạnh bờ cỏ đi xuống bến đò, tôi thấy có một cái am nhỏ với nhiều bình vôi sứt mẻ bị bỏ lăn lốc; tôi đứng lại nhìn, và vô tình, sẳn dịp nghĩ chân, tôi đái vào đó. Chị ba Trữ có vẻ ngạc nhiên, hết hồn, rầy tôi, không nên đái vào chổ ấy. Chị lẩm bẩm van vái gì đó và nói:”em tôi nhỏ dại không biết…”.
Chồng chị ba Trữ là anh ba Đa.
(anh ba Đa)
(thường hay ăn hiếp và đánh chị) hai người sống trên ghe (không biết buôn bán gì?)
Trên đường đi đến nhà Ngoại, dọc theo bờ ruộng, có mấy người bà con quen biết, đang làm ruộng, thấy tôi về, mừng rỡ, gọi hỏi thăm lăn xăn; trong số nầy có anh Bạt/Bạc, khoảng mười mấy hay hai mươi tuổi (tôi không biết rõ là bà con, liên hệ gia tộc như thế nào, chỉ nghe Má gọi tên như vậy mà thôi), có vẻ thân thiện, thương mến, dồn dã nhứt. Họ gọi tôi là “thằng Đực”. Tôi cũng ba hoa ra điều là người ở tỉnh thành về, có biết nhiều chuyện về thời sự…
Tôi nói có thấy mấy chiếc máy bay quân đội Nhựt Bổn bay đi thả bom, bị Pháp bắn rơi mấy chiếc, còn lại mấy chiếc v.v… nhưng số cộng trừ về máy bay của tôi lại sai, không đúng. Có lẻ họ biết tôi nói láo khoét, không đúng sự thật, nhưng chỉ cười…Đến bây giờ tôi còn nhớ và hổ thẹn về lời nói ba hoa nầy…
Anh Bạt/Bạc là người có học nhưng ở nhà làm ruộng. Có vẻ anh thương mến và thích tôi. Nghe nói, sau nầy, anh đi làm cách mạng và đã bị tử vong!.
Anh Bạt/Bạc, người mà thuở nhỏ tôi chỉ gặp một hai, chớ không phải đôi ba lần, nhưng sao đã hơn bảy mươi năm qua, tôi lại vẫn còn nhớ tên và thoang thoáng hình ảnh của anh? Tôi không biết, nhưng có lẻ do thần giao cách cảm chăng?
Ngoài ra, nghe nói Má có người anh hay em trai bị bịnh tâm thần, thường hay bỏ nhà đi lang thang từ làng nầy sang làng khác. Ông ngoại bắt cột lại ở nhà, nhưng rồi lại cũng tiếp tục đi. Vì đi lượm thượm ban đêm, tuần canh làng lân cận không biết, bắt đánh. Phần dầm mưa dãi nắng, lâu ngày sanh bịnh mà chết!!! Có lẻ đây là bịnh tâm thần phân liệt (schizophrenia) giống như Đào Duy Tâm bây giờ. Không biết có phải là di truyền hay không? Tôi có khai trường hợp nầy với Bác sỉ của Tâm. Số phần đã định, không biết đâu mà lường!
Còn có đôi điều về gia đình, bên Nội lẫn bên Ngoại, mà tôi chưa rõ, nay Ba Má đã khuất núi rồi, không biết tỏ cùng ai. Một phần vì, tuổi thơ, tôi ít sống chung với đại gia đình, khi trưởng thành lại không có cơ hội…
Thí dụ:
Bên Nội, tôi không biết bác hai là ai. Cô ba, tôi chỉ thấy mặt và biết sơ qua; thường gọi là cô ba điếc, có bứu cổ và dường như là vợ của một ông hương cả ở làng nào đó mà tôi không biết. Tôi biết bác tư Quân;
ba tôi thứ năm. Tôi không biết người thứ sáu là ai. Người thứ bảy được ba tôi gọi là cô tám Núi.
Không biết đó là tên hay là vì cô tu trên núi mà được gọi như vậy?…Nghe nóí, thời còn trẻ, cô có chồng làm lính kín (agent de la sûreté=lính kín=công an=mật vụ), trắc trở sao đó, cô thôi chồng và đi tu trên núi Châu Thới từ bấy giờ đến lúc mãn phần (khoản năm mươi năm), khi tôi đang ở bên Mỹ. Ngày xưa, thỉnh thoảng, tôi có lên núi Châu Thới thăm cô…Còn lúc cô đến nhà thăm ba tôi, thì cô nói chuyện về sinh hoạt tu hành trên núi, chuyện sinh hoạt của gia đình bác Tư, chuyện bói toán, kinh kệ…, nên tôi biết khá rõ về sinh hoạt của chùa núi Châu Thới. Từ đó, tôi không còn tin tưởng nơi Thầy chùa và việc tu hành của Phật giáo nữa. Tôi tìm hiểu về thông thiên học, nhưng lại không tin Chúa…nên tôi trở thành người “vô tôn giáo “và cũng không thích cúng kiến ông bà như trước kia…Tôi quan niệm đó là mê tín dị đoan. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn là người “vô tôn giáo”.
Bên ngoại, tôi không biết người thứ hai, thứ ba, thứ tư. Má tôi thứ năm, người em kế là cậu sáu Lựa, có bịnh chân voi. Có lẻ, muốn giúp cho cậu sáu Lựa có công ăn việc làm, nên ba má tôi mở một tiệm bán thuốc cao đơn hoàn tán ở chợ Bến Cá, để cậu làm quản lý. Chuyện thân nhân gia tộc, tôi không biết rỏ lắm, chỉ nghe nói lóm, thoáng qua mà thôi, chớ tôi không có hỏi rành mạch kỷ càng. Tôi đã rời gia đình, đi Saigon học và làm việc từ năm mười sáu tuổi và lập nghiệp nơi nầy luôn. Từ đó, tôi sống với người dưng khác họ, tự lập gia đình riêng sớm, thỉnh thoảng mới về thăm nhà, ít khi bàn chuyện gia tộc, nên tình cảm không đậm đà lắm, kể cả chị em trong gia đình. Hoàn cảnh đất nước, xã hội, làm tôi càng ngày càng cách xa, ly biệt gia đình hơn. Tôi cũng không thiết tha và hối tiếc. Nhưng tôi vẫn cố giữ và tránh không có việc gì xích mích xẩy ra đáng tiếc.
Người xưa có nói “thà xa mõi chân hơn gần mõi miệng”.
Tính đến nay, tôi đã xa cách gia đình, tổ ấm của cha mẹ, nơi cất giữ tuổi thơ tôi, ngót “sáu mươi sáu năm” dài. Còn gì để nhớ “Quê hương tuổi thơ” không?…
Một đời trôi nổi theo vận nước
Dáng nét quê hương chạnh nổi lòng
Đào Quang Mỹ
“Những ngày trăn trở, cảm xúc, khi nhìn thấy bản đồ vẽ những địa danh vùng quê ngày xa xưa, nơi mà tôi đã từng lưu dấu chân đến, nên gợi lại ký ức tuổi thơ. Viết lại cho con”
Ghi chú: Những hình ảnh minh họa cho thích hợp tương đối với hoàn cảnh lúc bấy giờ, không có ghi chú rõ tên, đều lấy trên mạng internet.
-ID=daoquangmy1936
-PW=mydao1936
Mời uống trà!!!
No comments:
Post a Comment